Hiện nay, phương thức nuôi cá “sông trong ao” đã được nhiều người dân ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội áp dụng. Phương thức nuôi này giúp tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm; bảo vệ môi trường, hạn chế dịch bệnh. Đồng thời tiết kiệm chi phí nuôi trồng và hạ giá thành sản phẩm. Từ đó tăng hiệu quả kinh tế. Sở dĩ có tên gọi là “sông trong ao” là do người nuôi tạo ra một dòng nước liên tục (chảy như sông) trong ao trong quá trình nuôi; để trong nước luôn có đủ ôxy để nuôi cá. Chúng tôi xin giới thiệu sơ lược về kỹ thuật nuôi cá theo hình thức này trong bài viết dưới đây để các bạn tham khảo.
Mục Lục
Mô hình sông trong ao là gì?
“Sông trong ao” hay “mương trong ao” là cách gọi của một hệ thống công nghệ nuôi cá có tên tiếng Anh In pond raceway system (IPRS). Hệ thống này có xuất xứ từ Mỹ, được phát triển bởi GS.Jesse Chappell thuộc Trường Đại học Auburn và được USSEC (Hội đồng Xuất khẩu Đậu tương Mỹ) giới thiệu vào Việt Nam. IPRS là hệ thống nuôi cá bằng máng nước chảy đặt trong ao.
Theo IPRS, sông trong ao là cách giúp tập trung cá và cho cá ăn trong các ô hoặc “mương” ở ao nuôi. Hệ thống cung cấp cho chúng sự tuần hoàn nước liên tục; để duy trì chất lượng nước tối ưu và cải thiện việc quản lý thức ăn. IPRS cũng có khả năng giảm tải chất thải rắn trong ao; bằng cách tập trung và loại bỏ chất thải này từ cuối hạ lưu của các đơn vị ao/mương. Bà con cần kiểm soát chất lượng nước trong ao; tránh những nơi nước nhiễm phèn. Nếu bị nhiễm rồi cần xử lý ngay để tránh những hậu quả nghiêm trọng.
Điều kiện để nuôi cá theo hình thức này
- Diện tích ao phù hợp để áp dụng hình thức “sông trong ao” từ 7.000 – 20.000 m2; độ sâu ao từ 2 – 2,5 m.
- Khu nuôi chủ động nguồn điện (có điện 3 pha hoặc máy phát điện).
- Nhân sự quản lý phải có trình độ và được đào tạo.
- Đầu tư đồng bộ các thiết bị ngay từ đầu.
Thiết kế bể nuôi theo hình thức sông trong ao
Diện tích bể nuôi
Kích thước ao quy định kích thước bể nuôi. Do vậy, trước tiên, cần tính toán chính xác thể tích nước trong ao (dài x rộng x sâu), lưu ý độ sâu của ao không đồng đều. Khi đã xác định được thể tích ao sẽ tiến hành tính thể tích của bể và số lượng bể cần xây cho phù hợp. Thông thường, tỷ lệ thể tích bể nuôi tương ứng 2,5% thể tích ao. Nếu ao có diện tích 10.000m 2, có thể xây 2 bể nuôi, mỗi bể có diện tích 125 m2 (dài 25 m, rộng 5m).
Lắp đặt thiết bị
Nguyên lý hoạt động của hình thức “sông trong ao” là tạo dòng chảy liên tục trong ao. Vì vậy, người nuôi cần lắp các máy thổi khí đầu bể để tạo dòng chảy liên tục về phía cuối bể. Cuối bể có tường chắn để giữ phân cá và có hệ thống hút phân ra ngoài nhằm hạn chế ô nhiễm nước ao nuôi. Hai đầu bể có lưới chắn để cá không ra ngoài ao.
Sau khi hoàn thành lắp đặt các thiết bị, tiến hành thau rửa và vận hành thử. Nếu thiết bị hoạt động tốt, cho nước vào và tiến hành thả cá.
Thả cá vào bể
Để tối ưu hóa sản lượng và tái đầu tư cần tính toán chính xác cơ cấu cá thả trong mỗi bể. Nên chọn cá cỡ giống lớn. Đối tượng nuôi thường là cá chép, cá trắm, cá diêu hồng, cá rô phi, cá lăng, cá trắm đen… theo hình thức nuôi đơn. Bên ngoài bể thả thêm cá mè hoa để cá ăn phù du giúp lọc nước sạch hơn.
Trong quá trình nuôi không cần thay nước, chỉ bổ sung lượng nước bốc hơi. Không cần phải tháo cạn ao để vét bùn, khử trùng, phơi khô khi kết thúc vụ nuôi.
Một số lưu ý khi nuôi cá theo hình thức sông trong ao
- Tham quan học tập các mô hình thành công trước khi triển khai
- Chuẩn bị đủ cơ sở vật chất (đất, vốn) và kỹ thuật, kinh nghiệm và lòng nhiệt tình, say mê
- Làm từ nhỏ đến lớn, khi có kỹ thuật kinh nghiệm mới mở rộng
- Ghi chép sổ nhật ký hàng ngày để hạch toán hiệu quả kinh tế; truy xuất nguốn gốc và rút kinh nghiệm cho vụ sau
- Không có mô hình hoàn hảo nên phải chủ động, sáng tạo cho phù hợp với điều kiện của mình.
Xem thêm các bài viết hay tại đây.