Cua biển là một loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng và có giá trị kinh tế cao. Để nuôi cua biển trong ao đòi hỏi kỹ thuật chăm sóc rất cẩn thận. Cua biển ít mỡ, nhiều đạm, giàu chất khoáng và vitamin. Tại các địa phương, nhiều mô hình nuôi cua đã giúp người dân xóa đói giảm nghèo, thậm chí làm giàu từ vùng quê nghèo. Những năm gần đây, nghề nuôi cua biển phát triển khá mạnh. Để giúp ích cho việc chăm sóc cua, hôm nay chúng tôi sẽ nói về những bệnh thường gặp ở cua biển, hãy tham khảo nhé!
Mục Lục
Bệnh nổi hạt đốm trắng – đen ở cua
Nguyên nhân:
- Do 4 loài ốc sống ở vùng nước nóng, độ mặn thấp trong vùng triều cửa sông nhiễm vào cua.
Dấu hiệu bệnh lý:
Cua bị bệnh bỏ ăn, yếu, không lột xác được, rêu và tảo bám trên mai, yếu dần rồi chết. Trên thân có những đốm trắng đôi khi có cả những đốm đen.
Phòng trị:
- Tắm cho cua bằng Sulfat đồng nồng độ 0,5g/m3 có sục khí, thời gian chữa trị kéo dài 8 – 10 ngày.
- Rải vôi bột thường xuyên để diệt khuẩn và tiệt trùng.
Bệnh đen mang ở cua
Nguyên nhân:
- Sau khi nước có độ mặn thấp hoặc sau khi có mưa lớn, ký sinh sán lá đơn xuất hiện và gây bệnh. Sán lá đơn chủ nhỏ như sợi tơ đục thủng mang gây hoại tử mang cua.
Dấu hiệu bệnh lý:
Mang cua có những đốm đen, các tơ và áo mang chuyển màu đen một thời gian mang có mùi rất tanh, thối từng phần cho tới toàn bộ mang cua. Thân cua bị bệnh phần vỏ ngoài có các đốm đen, sau đó gây mù mắt. Xuất hiện cả giai đoạn cua con và cua trưởng thành. Sau khi mắc bệnh cua bỏ ăn, gây yếu, hô hấp kém nằm im không hoạt động.
Phòng trị:
- Tắm cho cua bằng Formol với nồng độ 16 – 30ml/m3 nước trong 15 – 20 phút, có sục khí, thời gian điều trị 6 – 8 ngày.
- Tắm cho cua bằng dung dịch Sulfat đồng với nồng độ 0.6g/m3, mỗi lần tắm trong 6 – 8 phút có sục khí. Thời gian chữa trị 6 – 8 ngày.
- Dùng vôi bột để diệt các ký sinh trùng, vi khuẩn.
- Khi có dấu hiệu bệnh hoặc thời tiết xấu, mà kéo dài dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixicacid trộn vào thức ăn với lượng 40 -60g/1kg thức ăn để phòng bệnh. Thời gian phòng bệnh 6 – 8 ngày.
Bệnh đốm trắng – vàng trên vỏ ở cua
Nguyên nhân:
Cua vẫn khỏe mạnh nhưng có đốm trắng-vàng. Màu sắc này có thể trong nước giàu canxi và magiê hay vôi bột bám là bình thường. Các đốm trắng – vàng này sẽ hết sau khi lột xác.
Dấu hiệu bệnh lý:
Cua gầy yếu, chậm lột xác hoặc lột xác kéo dài, cua bỏ ăn rồi chết. Trên mai và yếm xuất hiện đốm trắng -vàng.
Phòng trị:
- Sử dụng thức ăn tươi sạch, cho ăn vừa đủ, thức ăn thừa phải dọn sạch.
- Trộn thêm kháng sinh như Norfloxacin, Nalidixic acid,… và các vitamin A, C bổ sung vào thức ăn để tăng sức đề kháng.
Bệnh teo các chân ở cua
Nguyên nhân:
Do đáy ao nhiễm bẩn, thức ăn thừa nhiều, vệ sinh ao hồ kém, nhiễm Vibrospp. Ngoài ra do sự biến động thất thường của yếu tố nhiệt độ, cua không tự điều chỉnh cân bằng được nhiệt độ cho mình dẫn đến cua bị nhiễm lạnh
Dấu hiệu bệnh lý:
Bệnh biểu hiện, cua dùng càng vận động như muốn bò đi nhưng không nhích lên được, người ta gọi đây là bệnh cua vặn mình. Thân gầy yếu, các chân bò, chân bơi teo tóp, cua lười vận động, phản xạ bắt mồi chậm.
Phòng trị
- Đảm bảo độ sâu ao nuôi nhằm ổ định nhiệt độ.
- Vệ sinh tốt ao hồ nuôi tạo môi trường tốt cho cua.
- Tắm cho cua bằng dung dịch Oxytetracyline với nồng độ 0.5 – 3 g/m3. Thời gian tắm 20 – 30 phút, điều trị 6 – 8 ngày.
- Trộn kháng sinh Oxyteraccyline và dầu thực vật vào thức ăn với liều lượng 50mg/kg thức ăn. Cho ăn liên tục 6 – 8 ngày.
- Dùng kháng sinh Norfloxacin, Nalidixic acid trộn vào thức ăn hàng ngày với liều 40 – 60g/1 kg thức ăn để phòng bệnh.
Bệnh sinh vật bám
Nguyên nhân:
Giáp xác chân tơ sống ở biển, ấu trùng bơi lội tự do trong nước nhưng trưởng thành sống định cư hoặc ký sinh trên con cua.
Dấu hiệu bệnh lý:
Biểu hiện sinh vật bám trên vỏ, thân, mang, phần phụ cua.
>>> Tham khảo thêm những bài viết về Các bệnh ở thuỷ sản
Bệnh thủng vỏ
Ban đầu những đốm màu hơi trắng trên phần bụng giáp đầu ngực và dần chuyển thành các tổn thương loét có màu nâu đen; có thể nhìn thấy vỏ, màng và lớp cơ bên trong.
Tác nhân gây bệnh
Bệnh thủng vỏ do các tổn thương, xây xát do điều kiện nuôi nhốt không thích hợp, mật độ dày, môi trường nuôi bị ô nhiễm tạo điều kiện cho vi khuẩn Vibrio sp., Pseudomonas sp., Aeromonas sp., Spirillum sp., Flavobacterium sp., Vibrio vulnificus, V. parahemolyticus, V. splendidus và V. orientalis xâm nhập gây bệnh.
Phòng trị
- Chăm sóc cẩn thận, tránh gây sốc, xây xát cua, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh gây ô nhiễm môi trường nước.
- Sử dụng vôi bón 15 – 20 ppm; duy trì chất lượng nước tốt và có độ dày lớp bùn đáy thích hợp (5 – 10 cm). Cung cấp một lớp đất cát dày thích hợp cua có thể đào được, tác dụng làm giảm stress cho cua và giảm các chất bẩn bám trên cơ thể cua.
- Định kỳ thông qua quá trình thay nước hoặc bắt mẫu, tiến hành chà và quét rửa phần lưng cho cua bằng bông gòn nhúng trong dung dịch i-ốt nhằm ngăn chặn chất dơ bám trong suốt quá trình nuôi và lưu giữ nhằm hạn chế việc phát triển của nguyên sinh động vật, là nơi cư trú của vi khuẩn phân giải kitin.
- Sử dụng chlorin 2 ppm và cho cua ăn thức ăn có trộn thuốc (sulfonamides 0,1 – 0,2% hoặc 0,05 – 0,1% terramycin) trong 5 -7 ngày liên tục; phun thuốc trong ao với liều 2,5 – 3 ppm terramycin mỗi ngày một lần, liên tục trong 5 – 7 ngày.