Bệnh phân trắng là loại bệnh khá phổ biến trong tôm nuôi thường bắt đầu gặp từ thời điểm tôm đã nuôi được từ 50 ngày trở đi. Bệnh phân trắng rất khó để trị dứt điểm và hiện nay vẫn chưa có bất kỳ một biện pháp cụ thể hữu hiệu nào để điều trị hội chứng này.
Về cơ chế gây ra bệnh, các tác nhân gây bệnh tấn công vào hệ thống gan tụy và đường ruột khiến nó bị tổn thương và làm giảm chức năng hoạt động ở các cơ quan này dẫn đến việc tôm không hấp thụ được thức ăn, kèm theo đó lại bị tấn công bởi những tác nhân cơ hội khác khiến cho tôm chết.
Mục Lục
Khi quan sát hệ thống gan tụy trên tôm
Quan sát hệ thống gan tụy trên tôm bệnh thấy, các tế bào epithelial trong ống gan tụy bị bong tróc, sau đó tập trung lại tại phần nối giữa gan tụy, dạ dày và ruột giữa trước khi bị đẩy ra ngoài. Phân tích phân tôm thấy, thành phần chủ yếu là lipid, một số cấu trúc của hệ thống gan tụy và đường ruột và thường thấy có cả ấu trùng cũng như xác của Vermiform, một loại ký sinh trùng được xác định là một trong những tác nhân gây ra bệnh phân trắng (được cho là nhìn giống một loài Gregarines) (Sriurairatana S, et al. 2014).
Ngoài ra, có sự hiện diện nồng độ cao các nhóm vi khuẩn trong hệ thống gan tụy, đường ruột và phân tôm thuộc các nhóm Vibrio parahaemolyticus, Vibrio fluvialis, Vibrio alginolyticus, Vibrio mimicus, Vibrio vulnificus, Vibrio cholera và Vibrio damselae (Limsuwan, 2010). Năm 2010, một báo cáo từ nghiên cứu nguyên nhân bệnh phân trắng của nhóm Ha và cộng sự phát hiện vi bào tử trùng Microsporidian Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là tác nhân gây lên bệnh phân trắng.
Những triệu chứng cho thấy ao tôm bị bệnh phân trắng
- Tôm giảm ăn, màu sắc chuyển sang màu sậm hơn
- Gan tụy chuyển màu lợt, mềm nhũn; ruột và phân chuyển sang màu vàng hoặc trắng
- Tôm mềm vỏ
- Mang chuyển sang màu tối
- Xuất hiện các sợi phân trắng hoặc vàng nâu tại nhá hoặc nổi trên mặt ao và dồn vào góc ao hoặc cuối hướng gió.
Nguyên nhân gây bệnh phân trắng ở tôm
Bệnh thường xuất hiện tại các ao nuôi
Phân trắng là loại bệnh phổ biến trong tôm nuôi thường bắt đầu gặp từ thời điểm tôm nuôi được 40 ngày trở đi, có nhiều tác nhân có thể gây bệnh. Ban đầu, có thể chỉ một nhân tố cụ thể gây bệnh trước. Sau đó các nhân tố khác có cơ hội tấn công tiếp khi tôm đã bị suy yếu khả năng kháng thể. Do nguyên nhân gây bệnh đôi khi không phải chỉ do một tác nhân nên việc trị bệnh chỉ thực sự đem lại hiệu quả nếu chúng ta xác định đúng nguyên nhân.
Bệnh thường xuất hiện tại các ao nuôi có những đặc điểm sau: (Arief Taslihan, 2015)
- Tảo tàn trước đó, nồng độ NH3 cao
- Xuất hiện tảo lam
- Nồng độ các chất hữu cơ cao > 100 ppm
- Nồng độ Vibrio cao > 1 x 102 CFU/ml
- Độ kiềm < 80 ppm và > 200 ppm
- Nồng độ ôxy < 3 ppm trong thời gian dài
- Nhiệt độ > 320C
Do các tác nhân khác gây ra bệnh phân trắng ở tôm
Thức ăn: Tôm ăn phải thức ăn kém chất lượng hoặc bị nấm mốc, độc tố dẫn đến bệnh đường ruột, bệnh phân trắng… Bệnh sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn ở những ao cho thức ăn dư thừa
Tảo độc: Tôm ăn phải các loại tảo độc như: tảo lam, tảo giáp… trong ruột các loại tảo này tiết ra enzyme có khả năng gây tê liệt biểu mô. Khiến ruột tôm không hấp thụ được thức ăn và không tiêu hóa được. Dẫn đến tình trạng ruột bị tắc nghẽn gây bệnh phân trắng trên tôm
Do vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei: vi bào tử trùng chuyên ký sinh trên gan tụy của tôm và có thể gây ra bệnh phân trắng
Những nhóm tác nhân nào gây ra bệnh phân trắng?
Nhóm Vibrio
Nhóm độc tố gây tổn thương hệ thống gan tụy và đường ruột gồm:
- Độc tố bởi các loại khí độc: NH3, H2S
- Độc tố bởi nấm từ thức ăn: Thức ăn trong mùa mưa, điều kiện bảo quản không tốt khiến độ ẩm cao và sản sinh ra các loại nấm mốc tiết độc tố
- Độc tố bởi tảo độc (Cyanobacteria)
- Microsporidian Enterocytozoon hepatopenaei (EHP)
- Các cấu trúc của nhóm tảo Silica diatom: Do có lớp vỏ cứng sắc nhọn khi chết khiến hệ tiêu hóa bị tổn thương
- Ký sinh trùng (Gregarine)
Có thể một trong các nhân tố trên gây tổn thương hệ thống gan tụy trước. Sau đó các tác nhân khác tấn công tiếp theo khiến tôm nhiễm bệnh.
Những biện pháp phòng ngừa và điều trị bệnh
Cách điều trị bệnh
- Ngừng cho ăn hoàn toàn trong vòng 1 – 2 ngày
- Chạy quạt tăng cường ôxy nhiều nhất có thể
- Thay nước sạch đã xử lý 30 – 50% (Chú ý thay chậm để không làm tôm sốc)
- Tìm các giải pháp phù hợp để làm giảm nồng độ các chất hữu cơ trong ao (nếu ao thường xuyên xi phông thì dùng chất lắng tụ rồi xi phông sạch ra ngoài. Trường hợp ao không được xi phông trước đó thì chỉ dùng vi sinh. Không được làm xáo trộn đáy ao khiến khí H2S khuếch tán vào nước gây chết tôm)
- Sử dụng vi sinh với liều cao gấp 3 lần so với liều bình thường xử lý nước và đáy ao
- Trộn xen kẽ các nhóm vi sinh tiêu hóa và tỏi (10g/kg) vào thức ăn để cho tôm ăn (không trộn tỏi cùng vi sinh vì tỏi có thể làm bất hoạt vi sinh)
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên trong vòng 5 ngày liên tục.
Biện pháp phòng ngừa
- Kiểm soát Vibrio trong ao bằng cách luôn duy trì nồng độ thấp các chất hữu cơ. Là nguồn dinh dưỡng cho Vibrio phát triển như: Quản lý lượng thức ăn ăn đúng nhu cầu và theo nhiệt độ nước, xi phông loại bỏ chất thải, duy trì mật độ tảo, sử dụng vi sinh phân hủy các chất hữu cơ đáy ao và nước.
- Cho ăn lượng thức ăn theo nhiệt độ nước: Khi nhiệt độ nước tăng cao > 320C, tôm thường ăn nhiều hơn nhưng thời gian thức ăn đi qua hệ thống tiêu hóa rất ngắn làm tăng lượng chất thải trong ao. Nhiệt độ cao cũng làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn. Do vậy, khi nhiệt độ nước tăng cao, không tăng lượng thức ăn theo cách kiểm tra nhá thông thường.
- Bổ sung đầy đủ các chất tăng cường sức khỏe của tôm như vitamin và khoáng chất thiết yếu.
- Bảo quản tốt và kiểm tra hạn dùng của thức ăn, độ ẩm, nấm mốc.
- Kiểm soát tốt các loài tảo độc, độ kiềm trong ao.
- Luôn duy trì cân bằng hệ vi khuẩn có lợi trong ao bằng việc bổ sung thường xuyên vi sinh. Và duy trì hàm lượng ôxy lớn hơn 5 ppm.
Xem thêm những bài viết hay khác tại đây.