Hội chứng giảm đẻ 1976 (EDS 76: Egg Drop Syndrome) là một căn bệnh truyền nhiễm trên gà mái làm cho số lượng trứng giảm rất nhanh, gà không đạt được cái đỉnh sản xuất trứng cao nhất, hình dạng của trứng không ổn định, trứng chỉ có vỏ lụa hay vỏ can-xi mỏng và mất đi màu của vỏ trứng. Tác nhân gây ra căn bệnh này là một loại virus adeno (adenovirus) của nhóm III. Sư lan truyền mầm bệnh giữa những chú gà trong kiểu nuôi chuồng lồng thường sẽ diễn ra khá là chậm, tuy nhiên thì lại rất nhanh ở trong kiểu nuôi sàn/nuôi công nghiệp.
Mục Lục
Ðối tượng xảy ra hội chứng giảm đẻ
Bệnh xảy ra ở đàn gà đẻ công nghiệp (thương phẩm) và gà đẻ trứng giống trong giai đoạn 26 – 35 tuần tuổi (giai đoạn khai thác trứng).
Ðường lây truyền của căn bệnh này
- Lây truyền dọc: Bệnh lây truyền từ đàn bố mẹ sang đàn con thông qua trứng nhiễm bệnh (trứng bất thường).
- Lây truyền ngang: Bệnh cũng có thể lây lan từ đàn gà bệnh sang đàn gà khỏe thông qua thức ăn, dụng cụ chăn nuôi (máng ăn, uống…), phương tiện vận chuyển đã bị nhiễm khuẩn từ phân và các chất bài tiết khác của đàn gà bệnh.
Triệu chứng thường gặp
- Vỏ trứng bị mất màu, trứng nhỏ.
- Tiếp theo đó là vỏ mỏng, vỏ mềm hoặc không có vỏ cứng, hình dạng méo mó.
- Bề mặt vỏ mỏng thường xù xì, nhám, có nhiều hạt lắng đọng trên bề mặt vỏ.
- Tỷ lệ đẻ trứng ở đàn gà giảm đột ngột 20 – 40% (tương đương với 12 – 16 trứng/gà), có khi lên đến 50%, lòng trắng loãng, tỷ lệ ấp nở giảm.
- Một số con gà có biểu hiện tiêu chảy nhất thời, mào gà nhợt nhạt (chiếm 10 – 70% trường hợp). Nhìn chung sức khỏe gà không thay đổi nhiều so với trước. Bệnh thường kéo dài khoảng 6 – 12 tuần.
Chẩn đoán căn bệnh
Căn cứ vào dấu hiệu lâm sàng của bệnh. Bệnh rất dễ nhầm lần với một số bệnh như CRD, viêm thanh khí quản truyền nhiễm, viêm phế quản truyền nhiễm. Tuy nhiên, ở các bệnh truyền nhiễm, gà còn kèm theo một số triệu chứng lâm sàng như hắt hơi, thở khò khè, kém ăn, chậm lớn, lông cánh xơ xác mổ khám thì có thể thấy xuất huyết đường hô hấp trên và tích tụ urat trong ống thận làm thận sưng và có màu trắng.
Trong khi gà bị hội chứng giảm đẻ vẫn ăn uống bình thường, không chết (trừ khi có kế phát với bệnh khác). Thực hiện phản ứng huyết thanh học để kiểm tra kháng thể.
>>> Xem thêm về chuyên mục phương pháp phòng bệnh
Bệnh tích trên con gà
Khi mổ khám, quan sát thấy:
- Buồng trứng và ống dẫn trứng bị teo nhỏ
- Đôi khi tử cung bị viêm, phù thũng, trứng non không phát triển.
Cách phòng chống hội chứng giảm đẻ
Hiện, bệnh chưa có biện pháp điều trị đặc hiệu. Vì vậy, người nuôi cần thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa. Để có hiệu quả trong việc ngăn chặn bệnh.
Phòng bệnh bằng vaccine: Tiêm phòng cho đàn gà đẻ khi chúng trong giai đoạn 15 – 16 tuần tuổi. Hiện nay trên thị trường có các loại vaccine đơn giá phòng Hội chứng giảm đẻ riêng. Cũng như vaccine đa giá phòng 3 bệnh Newcastle (ND), viêm phế quản truyền nhiễm (IB) và hội chứng giảm đẻ (EDS).
Virus lây qua trứng nên có thể áp dụng các biện pháp để phòng bệnh như: Chọn gà giống từ những cơ sở giống chất lượng, không bị nhiễm virus, gà con phải được chọn từ những đàn gà được tiêm phòng cẩn thận; đảm bảo vệ sinh phòng bệnh trong quá trình vận chuyển trứng, quá trình tiêm phòng.
Thường xuyên vệ sinh môi trường chăn nuôi sạch sẽ. Cọ rửa, sát trùng máng ăn, máng uống thường xuyên. Ðịnh kỳ 2 lần/tuần phun các loại thuốc sát trùng, diệt khuẩn. Để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh tồn tại trong môi trường xung quanh. Cọ rửa, sát trùng máng ăn, máng uống thường xuyên.
Ðảm bảo thức ăn, nước uống phù hợp, đầy đủ dinh dưỡng. Trong quá trình nuôi, định kỳ bổ sung vitamin, khoáng, điện giải. Nhằm tăng sức đề kháng cho vật nuôi, chống lại stress khi môi trường có sự thay đổi.