Bệnh Marek là một bệnh truyền nhiễm ở gà do một loại vi rút thuộc họ herpes (hecpec) gây ra. Bệnh đặc trưng bởi sự tăng sinh nhiều tế bào lympho dưới dạng khối u ở hệ thần kinh ngoại biên, nội tạng, da và cơ, gây ra các triệu chứng rối loạn vận động và liệt. Tùy thuộc vào độc lực của virus và sức đề kháng của cơ thể mà bệnh có thể diễn biến cấp tính, hoặc mãn tính.
Virus được nhà nghiên cứu bệnh học người Hungary (Jozsef Marek) mô tả lần đầu tiên tại Hungary vào năm 1907. Ở Việt Nam, bệnh xuất hiện từ năm 1978 và trở nặng vào những năm 1980, do chăn nuôi gà công nghiệp. tiến triển.
Mục Lục
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh marek ở gà được phát hiện đầu tiên do Jozsef Marek – người gốc Hungary với tên gọi là chứng viêm đa dây thần kinh (polyneuritis) vào năm 1906. Mãi đến năm 1926 ông mới xác định được nguyên nhân gây bệnh là do virus.
Virus Họ Herpesviridae
Bệnh Merek’s ở gà do virus thuộc nhóm Herpese B được Biggs và Churchill xác định vào năm 1967. Tính đến nay có 3 chủng được tìm ra và chủng – serotype 1 là quan trọng nhất ở trên gà vì khả năng tạo khối u gây độc lực. Vi rút gây bệnh Merek’s có thể tồn tại trong phân gà 6 tháng hay trong nang lông gà 4-5 tháng vì vậy khi phòng bệnh cần lưu ý vệ sinh chuồng trại.
Virus gây bệnh Marek’s có thể bị tiêu diệt bởi các thuốc sát trùng thông thường và bị bất hoạt bởi pH = 3 hoặc pH = 11 trong khoảng 10 phút. Nhiệt độ càng cao thì virus chết càng nhanh. Cụ thể: 370C trong 18 giờ, 560C trong 30 phút, 600C trong 10 phút. Tuy nhiên virus tồn trại trong phân và trong nang lông gà thì rất lâu từ 6 tháng đến 1 năm.
Đường lây truyền
Vi rút có trong các nang lông, có thể lan truyền rất xa trong không khí. Bệnh lây lan trực tiếp từ gà ốm sang gà khoẻ bằng con đướng hít thở. Ngoài ra bệnh còn lây lan gián tiếp qua thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi và cơ sở ấp trứng có chứa mầm bệnh. Căn bệnh truyền theo phân không có vai trò lớn, tuy nhiên trên lớp độn chuồng sau 4 tháng vẫn còn tìm thấy vi rút có độc lực.
Triệu chứng của bệnh
Bệnh Marek thường ủ bệnh sau khi nhiễm 3- 4 tuần ,tiến triển chủ yếu ở hai thể cấp tính và mãn tính:
Thể cấp tính chủ yếu ở gà 4 – 8 tuần tuổi, có thể sớm hơn. Bệnh ít có triệu chứng điển hình, ngoài hiện tượng chết đột ngột. Tỷ lệ chết thường cao, có khi tới 20 – 30%, thường thể hiện triệu chứng ủ rũ và gầy yếu trước khi chết. Gà thường bỏ ăn, ỉa phân lỏng và giảm tỷ lệ đẻ, đi lại khó khăn, bại liệt, xã cánh một bên do viêm dây thần kinh vận động.
Thể mãn tính hay thể cổ điển chủ yếu xảy ra ở gà 4 – 8 tháng tuổi thường ở hai thể, thể thần kinh và thể mắt.
– Thể thần kinh: gà bệnh đi lại khó khăn, liệt nhẹ rồi dần dần bại liệt hoàn toàn. Đuôi gà có thể bị rủ xuống hoặc lệnh sang một bên. Cánh sã xuống một bên hoặc cả hai bên.
– Thể viêm mắt: Trong nhiều ổ dịch gà thường viêm mắt. Bệnh bắt đầu bằng hiện tượng viêm mắt nhẹ. Con vật tỏ ra rất mẫn cảm với ánh sáng, chảy nước mắt trong. Dần dần viêm màng tiếp hợp rồi viêm mống mắt. Mủ trắng đóng dầy khoé mắt. Khả năng nhìn kém dần, không mổ trúng thức ăn và cuối cùng có thể bị mù.
Bệnh tích
– Thể cấp tính: bệnh tích chủ yếu là hình thành các khối u ở nội tạng. U thường có ở gan, lách, thận, phổi, buồng trứng, túi fabricius, dịch hoàn … gan, lách sưng to hơn nhiều lần; so với bình thường, nhạt màu và bở.
-Thể mãn tính: bệnh tích chủ yếu là hiện tượng viêm tăng sinh các dây thần kinh ngoại vi. Dây thần kinh hông, thần kinh cánh bị sưng to; có khi to hơn 4 – 5 lần so với bình thường và có thể bị phù thũng.
Chẩn đoán bệnh
Chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng, mổ khám bệnh tích bằng việc phát hiện các khối u ở da; gan, thận, phổi, buồng trứng, lá lách, trong cơ các tổ chức mềm khác của gà bị bệnh Marek.
Phòng, trị bệnh như thế nào?
Bệnh không có thuốc chữa đặc hiệu.
Cần thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh sau đây :
Khi chưa có dịch xảy ra
– Tiêm vắc xin phòng bệnh Marek bắt buộc cho gà con 1 ngày tuổi dùng để sinh sản (gà ông bà, bố mẹ, gà nuôi lấy trứng) tại cơ sở ấp trứng.
– Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh thú y. Chăm sóc nuôi dưỡng để ngăn chặn bệnh Marek lây lan trong khu chuồng nuôi. Hàng ngày quét, nhặt thu dọn lông và đốt hết lông vì vi rút tồn tại lâu trong chân lông.
– Đối với các trại gà chăn nuôi công nghiệp nhất thiết phải có khu riêng biệt nuôi gà mái đẻ và khu nuôi gà con. Phải tuyệt đối chấp hành nguyên tắc: cùng nhập, cùng xuất (gà đưa vào nuôi cùng một lúc, xuất ra cùng một lúc). Sau khi xuất chuồng phải tiến hành tổng tẩy uế chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi bằng các loại thuốc khử trùng. Sau đó chuồng trại phải để trống ít nhất 1 tháng. Riêng đối với đàn đã nhiễm bệnh trước đó để trống chuồng ít nhất 3 tháng. Và thường xuyên vệ sinh tiêu độc khử trùng.
– Thực hiện các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Chú ý không nuôi gà lớn, gà con lẫn lộn.
Khi có bệnh xảy ra
– Giám sát phát hiện sớm;
– Cách ly đàn mắc bệnh, không được vận chuyển gà trong đàn nhiễm bệnh ra ngoài;
– Tiêu huỷ toàn bộ đàn mắc bệnh (bằng cách đốt. Sau đó chôn giống như đối với bệnh cúm gia cầm), đồng thời xử lý các chất tồn dư (phân, rác vv..);
– Vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng trại định kỳ 1 – 2 lần/1 tuần;
– Cấm nhập gà giống về nuôi trong thời gian xử lý đàn gà bệnh;
Cảm ơn đã đọc bài viết của chúng tôi.