Hầu hết các chế độ ăn cho gà đẻ đều có thể cho vịt đẻ ăn. Trong khi gà mái thường được cho ăn thức ăn hỗn hợp, thức ăn cho vịt nên là thức ăn viên hoặc vụn, với thức ăn viên là tốt nhất. Với chế độ ăn hỗn hợp, thức ăn có xu hướng đóng cục nhiều hơn trong miệng vịt, đòi hỏi phải thường xuyên đến nguồn nước để làm sạch vật liệu. Điều này làm tăng lãng phí thức ăn và độ ẩm của chất độn chuồng. Một khẩu phần ăn điển hình cho vịt đẻ có tối thiểu 15-16% protein thô và 3% canxi. Không nên cho vịt đẻ ăn hải sản (tức là bột cá ) vì sẽ làm mất mùi vị. Đối với gà, vịt đẻ không được cho ăn bột hạt bông.
Mục Lục
Chọn vịt sinh sản
Chọn vịt lên giai đoạn sinh sản lúc 21 – 22 tuần tuổi. Thời điểm này tỷ lệ loại thải thấp hơn thời điểm chọn lên hậu bị. Loại thải những con không đạt tiêu chuẩn giống như bị bệnh, ngoại hình có khuyết tật… Vịt trống được chọn khắt khe hơn và ghép trống mái theo tỷ lệ 1 : 5, 5 – 6. Khi sắp đẻ, vịt đã thay lông xong, bộ lông mượt trở lại. Nhìn bộ lông có thể đánh giá tương đối chính xác chất lượng nuôi dưỡng giai đoạn hậu bị.
Chuồng trại, ao hồ
Chuồng nuôi vịt đẻ cũng có các kiểu chuồng như chuồng – sân – ao, chuồng sàn trên ao. Yêu cầu đối với chuồng nuôi là nền chuồng phải khô ráo, tránh chuột và các động vật khác phá ổ trứng. Tránh mưa nắng cho ổ đẻ. Ổ đẻ được để sát vách chuồng. Ổ đẻ phải làm phía trong chuồng để khi vịt từ ao lên, đi qua sân chơi vào chuồng đến ổ đẻ thì chân đã khô, không làm dơ ướt ổ đẻ. Có thể ngăn riêng cho khu vực ổ đẻ, sau 8 giờ sáng ngăn khu vực này lại để tránh vịt vào nằm trong ổ đẻ làm dơ ổ đẻ.
Mật độ nuôi: 2 – 3 con/m2 nền chuồng
Lót nền chuồng và ổ đẻ bằng rơm khô, cỏ khô, trấu. Đặc biệt chú ý lót ổ đẻ, phải thay thường xuyên để tránh ẩm ướt và mốc. Trong điều kiện ẩm ướt, nấm và vi khuẩn rất dễ phát triển. Ổ đẻ được làm bằng gỗ, tre, tấm cót,… thành từng ô có kích thước 40 x 60 x 40 cm. Tính trung bình, mỗi ô cho 4 – 6 con mái đẻ.
Ví dụ: Một đàn vịt đẻ có 100 con mái thì làm 4 cái ổ đẻ, mỗi cái 5 ô đẻ. Đàn vịt có 500 mái thì làm 15 cái, để dọc theo vách chuồng (chiều dài 30 m). Nếu làm chuồng sàn trên ao cá, trước hết chúng ta lót sàn ở chỗ đặt ổ đẻ bằng tấm cát-tăng, cót… rồi mới đặt ổ đẻ lên, nhằm tránh cho rơm, trấu rơi xuống ao.
Các giai đoạn chăn nuôi vịt đẻ
Chăn nuôi vịt đẻ gồm 3 giai đoạn có liên quan chặt chẽ với nhau, làm không tốt bất cứ khâu nào đều ảnh hưởng tới sản lượng trứng và chất lượng trứng tổng thể. Có rất ít tài liệu nói về nhu cầu dinh dưỡng của các giai đoạn vịt đẻ, phần lớn là các tài liệu từ nguồn nước ngoài, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt giữa các nguồn. Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn bảng nhu cầu dinh dưỡng cho cả 3 giai đoạn từ nguồn PoultryHub. Mời bạn tham khảo.
Cả riboflavin và niacin đều phải được thêm vào khẩu phần, vì sự thiếu hụt các vitamin nhóm B này hạn chế sự tăng trưởng và phát triển ở vịt con. Các loại ngũ cốc chiếm tỷ lệ lớn trong khẩu phần bị thiếu các vitamin này. Muối thường làm cho phân ướt hơn và không nên thêm vào khẩu phần. 0,25% muối thông thường không có ảnh hưởng lớn; nhưng vịt con dưới 3 tuần tuổi rất nhạy cảm với muối. Cho vịt con ăn tự do loại thức ăn cho giai đoạn khởi động (trong khay nông) cho đến khi chúng được 2 tuần tuổi.
Tham khảo thêm kiến thức tại Artiocom.