Những năm gần đây, tình trạng xâm nhập mặn diễn ra vô cùng phức tạp. Đặc biệt là các tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long. Do vị trí địa lý giáp biển Đông và có độ cao thấp so với mực nước biển. Có những con sông bắt đầu từ thượng nguồn sông Mekong, với 9 nhánh đổ thẳng ra biển. Vào mùa khô, sông cạn kiệt do không có mưa. Độ mặn vào mùa khô ở đây có xu hướng tăng dần theo từng năm. Thiên tai này đã tác động tiêu cực đến đời sống sinh hoạt và kinh tế của người dân; trong đó ảnh hưởng đáng kể đến những người chăn nuôi tôm. Đồng thời, công tác quản lý, canh tác, an sinh xã hội của địa phương cũng gặp nhiều khó khăn.
Mục Lục
Xâm nhập mặn là gì?
Xâm nhập mặn hay còn gọi là đất bị nhiễm mặn. Với hàm lượng nồng độ muối vượt mức cho phép do nước biển xâm nhập trực tiếp vào đất liền. Nước biển mang theo lượng muối hòa tan và bị kết cấu của đất giữ lại, tích tụ và gây mặn. Dựa vào hàm lượng NaCl trong muối biến. Người ta có thể phân loại mức độ xâm nhập mặn theo các mức độ ít, trung bình và cao.
Thông thường, khi nước biển xâm nhập vào đất liền. Lượng nước ngọt từ những con sông từ thượng lưu chảy về hạ lưu. Giúp trung hòa nước mặn đồng thời đẩy ngược ra biển. Tuy nhiên trong những tháng mùa khô, thời tiết không có mưa và nước sông bị bốc hơi do nắng nóng. Khiến lượng nước ngọt không đủ đẩy, làm hiện tượng xâm nhập diễn ra biển.
Giải pháp ứng phó xâm nhập mặn đối với nuôi tôm nước lợ
Trước tình hình hạn hán, xâm nhập mặn đến sớm, sâu trên diện rộng và kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và thủy sản, Tổng cục Thủy sản – Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đưa ra giải pháp kỹ thuật ứng phó tình hình hạn hán, xâm nhập mặn các tỉnh Nam bộ. Nội dung cụ thể như sau:
Nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh
Gia cố bờ, cống để tránh hiện tượng rò rỉ, thẩm lậu, có ao lắng đúng quy cách. Thực hiện biện pháp an toàn sinh học trước khi thả tôm và trong quá trình nuôi. Bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học xử lý nước; để đảm bảo sức khỏe tôm nuôi và giữ môi trường bền vững. Hạn chế mất nước và thay nước khi môi trường nuôi ổn định;
Phổ biến, hướng dẫn người nuôi lựa chọn giống tôm có nguồn gốc rõ ràng; được kiểm dịch và có chất lượng tốt. Thực hiện ương gieo giống trước khi thả nuôi thương phẩm. Chỉ thả giống khi nhiệt độ nước dưới 30°C (sáng sớm hoặc chiều mát). Thả nuôi với mật độ hợp lý (tôm thẻ: < 80 con/m2; tôm sú: 10 – 15 con/m2). Duy trì độ mặn: 10 – 25‰; O2: > 3 mg/l; pH: 7,5 – 8,5. Độ kiềm: 80 – 150 mg/l…).
Cung cấp lượng thức ăn hợp lý theo kích cỡ và mật độ; giảm 15 – 30% lượng thức ăn trong những ngày nắng nóng. Định kỳ 15 ngày/lần bổ sung vitamin C, các khoáng vi lượng, men tiêu hóa trộn vào thức ăn cho tôm; thời gian mỗi đợt 5 – 7 ngày để tăng sức đề kháng. giúp tôm lột xác đồng loạt và nhanh cứng vỏ. từ 10 – 15 ngày/lần sử dụng các loại chế phẩm để xử lý nước và đáy ao nuôi; lượng dùng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Thường xuyên điều chỉnh và duy trì các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp theo quy định và theo hướng dẫn của cán bộ chuyên môn để nâng hiệu quả sản xuất. Duy trì mực nước trong ao tối thiểu 1,3 – 1,5m. Nếu cần cấp bổ sung nước thì phải được lấy từ ao lắng, xử lý trước khi cấp vào ao nuôi. Đồng thời chạy quạt nước để tránh hiện tượng phân tầng nhiệt độ; tăng cường oxy và giảm thiểu thiếu oxy cục bộ.
Nuôi tôm quảng canh cải tiến
Tập trung gia cố bờ bao, cống để tăng khả năng giữ nước. Chủ động bơm trữ nước vào mương và ao đầm nuôi khi mực nước cao ở các tuyến kênh.
Thả giống với mật độ phù hợp và cần được ương đạt kích thước 1,5 – 2 cm (nuôi chuyên tôm: mật độ thấp hơn 10 con/m2; nuôi kết hợp cua, cá…: mật độ 1 – 3 con/m2).
Giải pháp ứng phó xâm nhập mặn đối với canh tác tôm – lúa
- Ruộng nuôi không nên rộng trên 1 ha
- Diện tích mương từ 25 – 40% so với mặt ruộng lúa
- Mương bao rộng 2,5 – 3,5 m, sâu 0,8 – 1,2 m
- Bờ mương rộng 3 – 4 m, phải được đầm nén thật cẩn thận, tránh rò rỉ.
- Mỗi ruộng nên có ao chứa, lắng nước để cung cấp nước cho ruộng nuôi vào những lúc cần thiết
- Giống tôm thả cần được ương đạt kích cỡ từ 1,5 – 2,0 cm với mật độ 2 – 3 con/m2/vụ.
Xem thêm các bài viết hay tại đây.